Welcome to TTKS/KTQN

CLICK HERE TO OPEN

Thursday, August 11, 2011

NHỚ THƯƠNG QUÊ NỘI QUÁ CHỪNG

Hà Kỳ Lam viết về Gò Nổi

“Thực ra Quảng Nam chỉ có con sông chính là dòng Thu Bồn phát nguyên từ núi Ngok Ling thuộc tỉnh Kontum với các phụ lưu là sông Tiên,sông Tranh từ vùng Tiên Phước,và sông Vu Gia từ vùng Đại Lộc nhập vào……..

Nói đến làng mạc bên hữu ngạn sông Thu Bồn không thể bỏ qua chi tiết vùng Gò Nổi……..dòng sông phân thuỷ tách ra hai hướng khi bắt đầu đến làng Vân Ly;một nhánh rẻ phải chảy về hướng nam gọi là sông Trước và nhánh rẻ trái chảy về hướng bắc goị là sông Sau….Hai nhánh sông chảy vòng ôm một cù lao với chiều dài khỏang 10 cây số,chiều rộng khỏang 5-6 cây số,rồi lại hợp lưu để tiếp tục hành trình của dòng Thu Bồn ra biển Đông.Cù lao ấy gọi là Gò Nổi…..

Vùng Gò Nổi gồm các làng kể từ hướng trên nguồn xuống : Vân Ly xóm nam,Tư Phú tây,Tư Phú đông,La Kham,Thạnh Mỹ,Bảo An,Xuân Đài,Kỳ Lam xóm nam,Bến Đền tây,Bến Đền đông,,Bàn Lãnh,Dinh Trận,Trừng Giang,Đông Bàn,Cẩm Lậu,Phú Bông,Hà Mật,Thi Lai.Điều đáng nói nhất về Gò Nổi là trong số nhân tài của tòan xứ Quảng thì nơi đây sản sinh phần lớn….”

Nguyễn Văn Xuân viết về Gò Nổi.

Lại ngược sông nữa,bạn sẽ gặp một vùng gọi là Gò Nổi.Đây là vùng trù phú nổi tiếng về ngành dệt các mặt hàng vải,tơ lụa.Cũng vì có tơ lụa nên có những ruộng dâu xanh ngát.Các cô gái làm nghề tằm tang quen ở trong bóng mát nên có tiếng xinh đẹp nhất…….cũng vì có dâu xanh lúa tốt nên Gò Nổi sản xuất biết bao nhiêu danh nhân lừng lẫy trong học vấn,trong chính trị ,cách mạng-Từ Hòang Diệu tới Phạm Phú Thứ,từ Trần Cao Vân đến Phan Thành Tài..Riêng một họ Phan,về lớp sau cũng sản sinh những Phan Khôi,Phan Thanh…thú vị hơn nữa những cô gái Bảo An xinh đẹp một thời.”

GÒ NỔI ĐỔI TÊN PHÙ KỲ NĂM 1953

TRUNG NHÂN VIẾT.

“ Sông Thu Bồn, từ nguồn đổ về đến làng Giao Thủy, rẽ ra làm hai nhánh, một dòng về Kỳ Lam, một dòng về Kiểm Lâm, La Tháp (quê hương Bùi Giáng), tạo ra một vùng gò nổi hình cái thoi, bắt đầu từ làng La Kham đến chót dải đất là làng Hà Mật. Từ đó hai dòng sông nhập chung lại, chảy về cửa Đợi, qua thành phố Hội An, tỉnh lỵ Quảng Nam.

Vùng đất hình thoi này xưa kia dân chúng gọi là Gò Nổi, thuộc quận Điện Bàn. Đến năm1953, tòa hành chánh tỉnh Quảng Nam lập ra khu hành chánh, ông Phan Vỹ là khu trưởng, đặt tên vùng gò nổi này là khu Phù Kỳ, và địa danh ấy vẫn giữ nguyên đến bây giờ.

Dân số Phù Kỳ khoảng chừng hai chục ngàn, sản sinh ra nhiều nhà cách mạng, văn hóa và khoa bảng.

Từ làng La Kham, một con đường đất rộng xuyên qua các làng Bảo An, Xuân Đài, Đông Bàn, Bàn Lãnh, Cẩm Lậu, Phú Bông, Thi Lai, An Trường và Hà Mật, dân chúng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải. Một số ít trồng mía làm đường ở Bảo An. Thuở ấy, Phù Kỳ còn sản xuất một loại tơ may âu phục nổi tiếng trong nước là hàng tít-so bằng tơ tằm sợi lớn, càng cũ càng sáng nước ra, thanh niên Tây học ai cũng yêu thích. Khoảng thập niên 30, dân Nam Kỳ lục tỉnh ăn mặc đơn giản, đa số dùng lãnh đen hay lãnh Mỹ a, nhuộm mặc nưa. Loại lãnh này dệt bằng tơ tằm ở hai quận Duy Xuyên và Điện Bàn mà khu Phù Kỳ là đông dân làm nghề dệt hơn cả. Tuy là nơi sản xuất, nhưng loại hàng này dệt ra không dùng ngay được mà phải đưa vào Hốc Môn, Tân Châu nhuộm, xong mới tung ra thị trường tiêu thụ là lục tỉnh Nam Kỳ, sau đó là Nam Vang, Cao Miên. Nhờ vào nguồn tiêu thụ rộng lớn đó, dân Phù Kỳ làm ăn phát đạt, giàu có và ngành dệt phồn thịnh nhất Quảng Nam. Năm 1940, đã có nhiều nhà cất theo kiểu Tây, ở Thi Lai, ông Võ Dẫn sầm xe Traction 11.

Nguyên do khiến tiểu công nghệ dệt phát triển là một sự việc khá lý thú. Trước kia dân chúng dệt lụa bằng tay, chân đạp, tay phóng thoi; ba hay bốn ngày mới được một cây lụa hai mươi thước. Đến khoảng năm 1927, một người Pháp muốn kinh doanh ngành dệt, mua một máy dệt bằng sắt, chở đến Hội An, nhưng vì nhiều lý do phức tạp đã không dùng được. Tình cờ ông Võ Dẫn (tức Cửu Diễn) xuống Hội An chơi, thấy cái khung dệt này. Tuy xuất thân chỉ là thợ dệt, học hành chẳng bao nhiêu, nhưng ông rất thông minh, chỉ nhìn qua khung dệt một lần, về nhà ông lấy gỗ mít đóng một khung cửi hoạt động tương tự như cái khung cửi sắt đó. Ông phối hợp cả gốc tre (làm tay đánh cái thoi), quai guốc da bò, niềng thép. Thay vì máy sắt chạy bằng điện, ông chế ra đạp bằng chân. Dệt tay mất ba, bốn ngày mới được một cây lụa, dệt đạp bằng chân chỉ tốn có một ngày. Làm thành công, sợ người bắt chước, ông lấy thùng thiếc đựng dầu hôi, cắt từng tấm đóng kín khung dệt, chỉ chừa những bộ phận không thể che dậy được. Thế mà có ông thợ mộc Nguyễn Thống, chuyên đóng khung dệt bán cho bà con, đến xem, và chỉ kê tai nghe tiếng máy chạy đều, vài tháng sau ông đã sản xuất ra hàng loạt khung dệt để bán. Từ đó tiểu công nghệ dệt phát triển nhanh chóng, đến nỗi tơ tằm địa phương sản xuất không đủ cung cấp cho khung dệt, phải ra Bắc vào Nam mua thêm tơ sợi.

Thời gian các ông Võ Dẫn và Nguyễn Thống sáng chế ra cái trục quì để dệt hàng cẩm tự (ô vuông âm dương) và hàng có bông nổi, Phù Kỳ rất trù phú, tuy vùng quê nhưng nhà ngói nhiều hơn nhà tranh; Đà Nẵng, Hội An tuy thành thị cũng không bằng được!

Đến năm 1945, chiến tranh bùng nổ, nhà cháy, dân chúng phải tản cư, khung cửi tan tành. Một số chạy vào Sài Gòn, ngụ cư tại vùng Ngã Tư Bảy Hiền, dựng lại nghề dệt. Lúc bay giờ Ngã Tư Bảy Hiền còn là một vũng sình, lần hồi dân Phù Kỳ tập họp lại khá đông. Có thể nói, Ngã Tư Bảy Hiền là khu Phù Kỳ thứ hai vậy……………..

Rời Đông Bàn, Bàn Lãnh, Cẩm Lậu, chúng ta sẽ đến chợ Thu Bông. Nơi đây có một đồn binh Pháp lớn, kiểm soát trọn khu Phù Kỳ. Về chiến thuật, cái đồn này nằm chơ vơ giữa đồng. Về tiếp tế, cả hai bên đồn đều bị con sông Thu Bồn ngăn cách. Từ Vĩnh Điện vào Phú Bông phải qua phà Hoa Trà; từ Phú Bông qua đồn Trà Kiệu phải qua sông và một khoảng đường dài ………………………………………….

Phú Bông có một món ăn độc đáo mà bất cứ ai là dân Phù Kỳ đều ưa thích, đó là món ram bà Thiều. Ram là món ăn chơi đặc biệt của xứ Quảng, tương tự như món chả giò, chỉ khác là nhân làm bằng một con tôm, một lát thị ba chỉ, một củ hành lá, cuốn tròn đem rán mỡ. Khi ăn, trải miếng bánh tráng mỏng, thêm một miếng bánh tráng nướng, và rau thơm, đặt cuốn ram lên, hai tay nhẹ nhàng cuốn tròn lại, túm đầu túm đuôi cho cuốn bánh trong long bàn tay và bóp mạnh. Miếng bánh tráng nướng rệu kêu giòn, nhiên hậu mới chấm nước mắt ớt đưa vào miệng. Cái bánh tráng loại này mỏng vừa phải, nhúng nước vẫn bền nên dù bóp mạnh mà không rách. Cái món ăn cầu kỳ quê mùa này, nhắc để mấy lão già xa xứ còn sót lại tưởng niệm mà thôi, con cháu của mình, dù là gốc Phù Kỳ, mấy đứa còn nhớ !....”


Hai miền thương

Quê hương tôi bên ni đèo Ải

Nhấp nhô bóng thuyền cửa Đại

Già nua nếp phố Hội An

Ngũ Hành Sơn năm cụm ngắm sông Hàn

Chùa Non Nước trầm tư hương khói quyện

Đêm Đà Nẵng vọng buồn cơn sóng biển

Bún chợ Chùa, thương nước mắm Nam Ô

Tôi muốn về Trung Phước giữa mùa ngô

Thăm quê ngoại Đại Bình cam đỏ ối

Sáng Duy Xuyên, tơ vàng giăng nghẽn lối

Chiều Điện Bàn, xe đạp nước thay mưa

Sông Thu chẳng thiếu đò đưa

Ngọt khoai Tiên Đõa, mát dừa Kiến Tân

Quế Sơn núi liếp mấy vần

Thương bòn bon Đại Lộc, nhớ rượu cần Trà My

Trăm người đi, vạn người đi

Đưa chân tám hướng còn ghi vết đời

Thủy triều sông Cửu đầy vơi

Nước tìm biển cả, tình người tìm nhau

Hai miền thương, một nhịp cầu

Ga xưa còn nhớ con tàu viễn phương

1964

Tường Linh
-----------------------------------------------------------------------------------------

Thành Thái Thứ 10-Năm Mậu Tuất

(Chép lại từ gia phả / 2005)

BÀI CA NGŨ̃̃ PHỤNG TỀ PHI

Nhân tài lỗi lạc Quáng Nam

Văn danh minh phụng vẽ vang tỉnh nhà

Niên canh Mậu Tuất lịch ta

Năm ông ứng thí quê nhà Quãng Nam

Ngô Chuân,Phạm Liệu,Phan Quang

Cùng ông Phạm Tuấn một làng văn chương

Kế liền Hiễn Tiến họ Dương

Người đều ca tụng sắc hương ai bì

Ca rằng Ngũ Phụng Tề Phi

Năm ông cùng đỗ khoa thi một lần.

---------------------------------

GÒ NỔI

Nội tôi Cẫm Lậu Địên Bàn

Gò Nổi mía, lúa Thu Bồn bọc quanh

Văn tài có một nổi danh

Cụ Dương Hiễn Tiến một trong năm người

Niên hiệu Thành Thái thứ mười

Cùng đậu Tiến Sĩ bảng vàng tề phi.

heduong / August / 2011



QUA SONG CỔNG SẮT CŨ MỘT KHUNG TRỜI ĐẦY KỸ NIỆM

Cũng những ngày tháng này mười năm về trước , năm 2001 ,lần đầu tôi về thăm lại thành phố yêu thương mà tôi đả đành đoạn ra đi năm nào. Tôi bồi hồi xúc động gặp lại anh em tôi ra đón tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Tình cảm bà con bạn bè còn ở lại vẫn nồng nàng và đầy ắp làm tan đi bao băng khoăn trong lòng tôi khi quyết định về thăm quê hương .

Có và có rất nhiều những nơi tôi muốn thăm lại , nhưng một nơi mà tôi nôn nóng nhất muốn thăm là Phòng thí nghiệm của Viện Quốc Gia Định Chuẩn trong Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa , nên khi xe chúng tôi bao muốn đưa các em các cháu đi ra Vũng Tàu , thì tôi nói với bác tài rẽ vào Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa . Con đường không khác mấy ,tôi vẫn còn nhận ra và chỉ cho bác tài lối chạy và chúng tôi đả đậu xe trước cổng của Phòng thí nghiệm.

Vì quên cả ngày giờ ,nên hôm đó là ngày chủ nhật , Phòng thí nghiệm cửa sắt ngoài khóa kín . Tôi đứng tần ngần nhìn vào từ nhà gát gần cổng , con đường chảy thẳng tắp vào Phòng thí nghiệm .Bao nhiêu hình ảnh thân thương năm nào trở về với ký ức của tôi.

Tôi không quên và còn nhớ , và nhớ rất rõ , bao nhiêu căn phòng trong dãy nhà trước mặt . Bao nhiêu những gương mặt thân thương đang độ tuổi đầy nhựa sống , bao nhiêu kiến thức thu hoặch được từ học đường , những nơi tu nghiệp hay những kinh nghiệm từ những trung tâm kỹ thuật khác , họ đang cặm cuội làm việc không ồn ào nhưng với thiện chí đóng góp cho khoa học . cho phát triển kỹ nghệ của quê hương .

Riêng Phòng thì nghiệm công nghiệp nhẹ trang bị khá đầy đủ máy móc hiện đại trong thời gian ấy , KS Dương hiển Hẹ nhiều năm làm việc cho Trung Tâm Khảo Sát Kỹ Thuật Quân Nhu , giàu kinh nghiệm và nghiên cứu biệt phái sang Viện Quốc Gia Định Chuẩn . KS Hẹ phụ trách Phòng thí nghiệm công nghiệp nhẹ chuyên trắc nghiệm các sản phẩm cao su, giấy , vải..,Anh Đặng Khải Nghĩa , một chuyên viên kỳ cựu bên Trung Tâm Kỹ Thuật Quân Nhu cũng được biệt phái sang Viện Quốc Gia Định Chuẩn phụ trách phần cao su , tôi được chỉ định phần trắc nghiệm vải , giấy.

Phòng thí nghiệm chúng tôi đối diện với Phòng hóa .Phòng hóa phụ trách lảnh vực rộng lớn hơn , nên lực lượng nhân sự cũng hùng hậu hơn nhiều .Tôi còn nhớ bên ấy có KS Cảnh , Phó TS Thanh Thủy, KS Hoa Tâm , KS Đinh văn Tân, KS Trần quốc Dũng , KS Thanh KS Quới ,CS Trần thị Vi, CS Bùi Tường Loan, CS Như Thủy, cô Xuân và một số bạn...mà tôi xin lỗi không nhớ tên.. Phòng Điện có KS Đặng trung Ngôn , bên Phòng cơ khí có KS Nguyễn văn Tĩnh , KS Nguyễn võ Tiếp..Quản lý tiếp liệu có anh Trần đình Ánh.Phòng thí Nghiệm có KS Nguyễn hữu Độ là Giám Đóc , và Ks Quỳnh là Phụ tá giám đốc.

Hằng ngày anh Tốt lái chiếc mini van đón nhân viên của Phòng thí nghiệm tại trụ sở Trung ương của Viện tại 31 Hàn Thuyên ,anh đón dọc đường và vài người trong đó có tôi tại trạm chót tại Ngả ba Hàng Xanh để leo cầu Saigon và bong bong xa lộ hướng về phía Biên Hòa , rẽ vào Khu Kỹ nghệ Biên Hòa và đổ vào sân của Phòng thí nghiệm để mọi người bắt đầu một ngày làm việc.

Tôi như người chết tròng , tần ngần ngoài cổng Phòng thí nghiệm ,trong lúc bao hoài niệm đang tuông trào trong tâm thức , thình lình hai ba anh cảnh vệ của Phòng thí nghiệm từ trong xa chạy tuông ra cổng . Tôi như người ăn trộm bị bắt quả tang ! Tôi ấp úng tự giới thiệu là nhân viên cũ của nơi đây và hỏi thăm về KS Cảnh .. Các anh cảnh vệ nói KS Cảnh không còn làm việc nơi đây .

Tôi vội vả cám ơn và không quên xin phép chụp vài tấp hình đứng nơi cổng rồi vôi vàng lên xe hối bác tài xế nổ máy...

Vũ Ninh / Canada